Đặc điểm kinh tế Chủ_nghĩa_tư_bản

"Chủ nghĩa tư bản" hay các định nghĩa, lý thuyết liên quan đến "chủ nghĩa tư bản" (CNTB) có thể được hiểu là một hệ thống các quan điểm, các định nghĩa được những người cộng sản, những chính khách theo phe cộng sản và các chính khách cánh tả khác đưa ra để xác định một chế độ xã hội trong đó có sự sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất gắn với nền công nghiệp có năng suất lao động cao làm bộc lộ bản chất "bóc lột" lao động làm thuê của các "nhà tư bản". Do ảnh hưởng lý luận theo quan điểm duy vật biện chứngduy vật lịch sử, nhiều lý thuyết gia khái quát "chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa". Trong khi đó nhiều học giả khác không coi chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế xã hội hay gắn nó với chế độ chính trị. Quan niệm của họ chủ nghĩa tư bản chỉ phản ánh một quan hệ sản xuất trên nền tảng chế độ tư hữu hay nguyên tắc vốn và lãi khi tham gia vào thị trường. Ở các nước mà những người cộng sản gọi là theo chế độ chính trị "tư bản chủ nghĩa" (đối lập với xã hội chủ nghĩa) thì không có định nghĩa rõ ràng thế nào là CNTB trong các văn kiện pháp luật hay các văn kiện mang tầm cỡ quốc gia[cần dẫn nguồn].. (không quy định trong Hiến pháp,...). Về mặt chính trị, ở những "quốc gia tư bản" quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt không hề bị nghi ngờ, họ không đưa ra khái niệm thế nào là nhà nước CNTB [cần dẫn nguồn] mà chỉ định nghĩa các chế độ chính trị như thế nào thì được gọi là một nhà nước quân chủ lập hiến, quân chủ hợp hiến, nhà nước dân chủ, quân phiệt, chế độ độc tài, chế độ cộng hòa.v.v..Không có đảng nào mang tên Đảng tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên những người theo phái xã hội chủ nghĩa,....thường cho là các cuộc bầu cử của chế độ tư bản đem lại lợi thế cho giai cấp tư sản, và bảo vệ chế độ tư bản nên khái quát thành "chính trị tư bản chủ nghĩa".

Do nhận thức khác nhau trên cơ sở kinh tế hay chính trị, "các nước tư bản" thường tự gọi họ là các nước thuộc "Thế giới tự do", trong khi gọi các nước đảng cộng sản lãnh đạo là "các nước cộng sản"; trong khi đó các nước đảng cộng sản lãnh đạo gọi nước họ là "các nước xã hội chủ nghĩa", và các nước kinh tế tư bản chủ đạo là "các nước tư bản", và không gọi các nước tuyên bố "xã hội chủ nghĩa" (trong Hiến pháp,v.v.) nhưng không do đảng cộng sản lãnh đạo là "các nước xã hội chủ nghĩa".

Có thể nói rằng hình thái kinh tế xã hội mà những người cộng sản gọi là "CNTB" tồn tại dựa trên quan hệ cho vay lãi và cho thuê, điều này hoàn toàn đối lập với quy luật bảo toàn và chuyển hóa của thế giới vật chất (một trong ba "chân vạc" trong hệ thống lý luận của những người cộng sản): vật chất không thể tự sinh ra vật chất, tiền không thể đẻ ra tiền. Theo quan niệm của những người theo chủ nghĩa xã hội thì chỉ lao động mới tạo ra giá trị thặng dư, chứ không phải là vốn, do đó người lao động được nhận tất cả những thành quả tạo ra giá trị thặng dư, mặc dù kinh tế thì không thể thiếu vốn đầu tư.

Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quyền này được Nhà nước tư bản chủ nghĩa bảo vệ về mặt luật pháp. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu nhà nướcsở hữu tập thể và đôi khi ở một số nước tư bản chủ nghĩa, tại một số thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay còn gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và phần lớn trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu toàn dân, tập thể và nhà nước đối với các tư liệu sản xuất (ví dụ như đất đai và tài nguyên khoáng sản).

Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động cơ lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải, phân hóa giàu - nghèo là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Các hệ thống kinh tế

Kinh tế tư bản chủ nghĩa
Kinh tế xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường
Kinh tế kế hoạch
Kinh tế hỗn hợp
Chủ nghĩa xã hội thị trường
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường xã hội
Kinh tế chuyển đổi
Kinh tế mở
Kinh tế khép kín
Kinh tế tự cung tự cấp
Kinh tế hàng hóa
Kinh tế tiền tệ

Nói chung, chủ nghĩa tư bản như một hệ thống kinh tế và phương thức sản xuất có thể được tóm tắt bằng những điều sau đây:[51]

  • Tích lũy tư bản:[52] sản xuất vì lợi nhuận và tích lũy vốn như mục đích ngầm của việc sản xuất, hạn chế hoặc loại bỏ sản xuất trước đây được thực hiện trên cơ sở hộ gia đình hoặc xã hội chung.[53]
  • Sản xuất hàng hóa: sản xuất để trao đổi trên thị trường; để tối đa hóa giá trị trao đổi thay vì sử dụng giá trị.
  • Quyền sở hữu tư nhân các phương tiện sản xuất.[10]
  • Mức lương lao động cao.[54]
  • Đầu tư tiền và vốn để sinh lợi nhuận.[55]
  • Việc sử dụng cơ chế giá để phân bổ nguồn lực giữa các cạnh tranh lợi ích.[10]
  • Tạo môi trường tự do cho các nhà tư bản để hoạt động thuận lợi trong việc quản lý kinh doanh và đầu tư.[56]

Nền kinh tế thị trường

Vì nền kinh tế được điều hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự điều hành, tự phát sinh theo quy luật của thị trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó là nền kinh tế thị trường tự do (để phân biệt với nền kinh tế thị trường nhưng có sự can thiệp của Nhà nước - kinh tế hỗn hợp).

Trong thị trường tự do và hình thức laissez-faire của chủ nghĩa tư bản, thị trường được áp dụng ít quy định hoặc không có quy định nào về cơ chế định giá. Trong các nền kinh tế hỗn hợp, nó gần như phổ biến ngày nay,[57] thị trường tiếp tục đóng vai trò chi phối, nhưng được quy định ở một mức độ nào đó bởi chính phủ nhằm hạn chế các thất bại thị trường, thúc đẩy phúc lợi xã hội, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ quỹ và an toàn công cộng hoặc vì những lý do khác. Trong các hệ thống tư bản nhà nước, thị trường dựa vào ít nhất, với nhà nước dựa chủ yếu vào các doanh nghiệp nhà nước hoặc lập kế hoạch kinh tế gián tiếp để tích lũy vốn.

Nguồn cung là lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được sản xuất bởi một công ty và sẵn sàng để bán. Nhu cầu là số tiền mà mọi người sẵn sàng mua ở một mức giá cụ thể. Giá có xu hướng tăng khi nhu cầu vượt cung và giảm khi cung vượt cầu. Về mặt lý thuyết, thị trường có thể tự điều phối khi đạt được giá cân bằng và số lượng mới.

Cạnh tranh phát sinh khi có nhiều hơn một nhà sản xuất đang cố gắng bán các sản phẩm tương tự hoặc tương tự cho cùng một người mua. Trong lý thuyết tư bản, cạnh tranh dẫn đến sự đổi mới và giá cả phải chăng hơn. Không cạnh tranh, độc quyền hoặc cartel có thể phát triển. Sự độc quyền xảy ra khi một công ty cung cấp tổng sản lượng trên thị trường, do đó công ty có thể tham gia thuê tìm kiếm các hành vi như hạn chế đầu ra và tăng giá vì không sợ cạnh tranh. Một cartel là một nhóm các công ty hoạt động với nhau theo cách độc quyền để kiểm soát sản lượng và giá cả.

Những nỗ lực được thực hiện bởi chính phủ để ngăn chặn việc tạo ra độc quyền. Năm 1890, Đạo luật Anti-Trust Sherman trở thành luật đầu tiên được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nhằm hạn chế độc quyền.[58]

Động lực lợi nhuận

Động lực lợi nhuận là một lý thuyết trong chủ nghĩa tư bản mà đặt ra rằng mục tiêu cuối cùng của một doanh nghiệp là kiếm tiền. Nói cách khác, lý do cho sự tồn tại của một doanh nghiệp là để kiến lợi nhuận. Động lực lợi nhuận hoạt động trên lý thuyết lựa chọn hợp lý, hoặc lý thuyết mà các cá nhân có xu hướng theo đuổi những gì có lợi ích riêng của họ. Theo đó, các doanh nghiệp tìm kiếm lợi ích bằng cách tối đa hóa lợi nhuận.

Trong lý thuyết tư bản chủ nghĩa, Động lực lợi nhuận là đảm bảo rằng các nguồn lực đang được phân bổ hiệu quả. Ví dụ, nhà kinh tế người Áo Henry Hazlitt giải thích: "Nếu không có lợi nhuận trong việc đưa ra một bài báo, đó là dấu hiệu cho thấy lao động và vốn dành cho việc sản xuất của nó bị sai lệch: giá trị của tài nguyên phải được sử dụng trong việc đưa ra bài viết lớn hơn giá trị của bài viết ".[59] Nói cách khác, lợi nhuận cho phép các công ty biết liệu một sản phẩm có đáng để sản xuất hay không. Về mặt lý thuyết, ở các thị trường tự do và cạnh tranh tối đa hóa lợi nhuận đảm bảo rằng các nguồn lực không bị lãng phí.

Khác với nền sản xuất phong kiến là nền sản xuất lấy ruộng đất làm phương tiện sản xuất cơ bản và sở hữu ruộng đất là đặc quyền của vua, quý tộc và lãnh chúa, ngành kinh tế chính là nông nghiệpthương mại. Kinh tế tư bản chủ nghĩa bác bỏ đặc quyền về ruộng đất hoặc bất cứ độc quyền của tầng lớp quý tộc, thượng lưu nào. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tự do kinh doanh lấy công nghệ, máy móc, và chất xám làm phương tiện sản xuất chính và là nền kinh tế định hướng sang công nghiệp, dịch vụthương mại. Sự định hướng này hoàn toàn do yếu tố lợi nhuận và thị trường điều phối. Do phương tiện sản xuất là công nghệ, tri thức nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa để có lợi nhuận tối đa luôn có xu hướng hướng đến "nền sản xuất lớn" với sự tái đầu tư mở rộng và gắn liền với cách mạng khoa học-công nghệ. Việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh là lợi ích sống còn của các chủ sở hữu doanh nghiệp trong cạnh tranh giành lợi nhuận.

Sở hữu tư nhân

Mối quan hệ giữa nhà nước, cơ chế chính thức và xã hội tư bản đã được tranh luận trong nhiều lĩnh vực lý thuyết xã hội và chính trị, với các cuộc thảo luận tích cực kể từ thế kỷ 19. Hernando de Soto là một nhà kinh tế học đương đại, người đã lập luận rằng một đặc tính quan trọng của chủ nghĩa tư bản là việc bảo vệ nhà nước về quyền tài sản trong một hệ thống tài sản chính thức, nơi quyền sở hữu và giao dịch được ghi nhận rõ ràng.[60]

Theo de Soto, đây là quá trình mà tài sản vật chất được chuyển thành vốn, từ đó có thể được sử dụng theo nhiều cách hơn và hiệu quả hơn nhiều trong nền kinh tế thị trường. Một số nhà kinh tế học Marxian đã lập luận rằng các hành vi bao vây ở Anh và các luật tương tự ở nơi khác là một phần không thể thiếu của sự tích lũy nguyên thủy tư bản và các khung pháp lý cụ thể về quyền sở hữu đất tư nhân đã không thể thiếu cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.[61][62]

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản thành phần kinh tế tư nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế. Sau này cùng với mô hình kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự can thiệp điều phối của nhà nước vào quá trình kinh tế thì tỷ trọng của thành phần tư nhân có giảm xuống nhưng đối với một nền kinh tế tư bản đặc trưng nó luôn chiếm tỷ trọng là thành phần lớn nhất trong nền kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò năng động, lực đẩy quyết định tính hiệu quả của nền kinh tế tư bản, còn thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động, tránh gây xáo trộn lớn trong xã hội và để kinh doanh trong các ngành cần thiết nhưng khó sinh lời. Theo thời gian giữa hai thành phần này thỉnh thoảng lại có sự hiệu chỉnh bằng các quá trình tư nhân hoá hoặc quốc hữu hoá doanh nghiệp thông qua việc bán và mua các cổ phần của doanh nghiệp.

Cạnh tranh thị trường

Bài chi tiết: Cạnh tranh (kinh doanh)

Trong kinh tế tư bản, cạnh tranh thị trường là sự cạnh tranh giữa những người bán cố gắng đạt được các mục tiêu như tăng lợi nhuận, thị phần và khối lượng bán hàng bằng cách thay đổi các yếu tố của hỗn hợp tiếp thị: giá cả, sản phẩm, phân phốikhuyến mãi. Merriam-Webster định nghĩa cạnh tranh trong kinh doanh là "nỗ lực của hai hay nhiều bên hoạt động độc lập để đảm bảo hoạt động kinh doanh của bên thứ ba bằng cách đưa ra các điều kiện thuận lợi nhất".[63] Nó được mô tả bởi Adam Smith trong cuốn Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia (1776) và sau này là các nhà kinh tế học khi phân bổ các nguồn lực sản xuất cho những mục đích sử dụng có giá trị cao nhất[64] và có hiệu quả lớn. Smith và các nhà kinh tế học cổ điển khác trước Antoine Augustine Cournot đã đề cập đến sự cạnh tranh về giá cả và giá cả giữa các nhà sản xuất để bán hàng hóa của họ theo các điều khoản tốt nhất bằng cách đấu thầu người mua, không nhất thiết với một số lượng lớn người bán cũng như thị trường trong trạng thái cân bằng cuối cùng.[65] Cạnh tranh được phổ biến rộng rãi trong suốt quá trình thị trường. Đó là điều kiện mà "người mua có xu hướng cạnh tranh với những người mua khác và người bán có xu hướng cạnh tranh với những người bán khác".[66] Trong việc cung cấp hàng hóa để trao đổi, người mua cạnh tranh giá thầu để mua số lượng cụ thể của hàng hóa cụ thể có sẵn hoặc có thể có sẵn nếu người bán đã chọn cung cấp hàng hóa đó. Tương tự như vậy, người bán đấu giá với những người bán khác trong việc cung cấp hàng hóa trên thị trường, cạnh tranh để thu hút sự chú ý và trao đổi tài nguyên của người mua. Kết quả cạnh tranh từ sự khan hiếm - không bao giờ đủ để thỏa mãn mọi mong muốn con người có thể tưởng tượng được - và xảy ra "khi mọi người cố gắng đáp ứng các tiêu chí đang được sử dụng để xác định ai nhận được cái gì".[66]

Tăng trưởng kinh tế

GDP bình quân đầu người trên thế giới cho thấy tăng trưởng theo cấp số nhân kể từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp[67]

Trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), sử dụng năng lực hoặc mức sống. Lập luận này là trung tâm, ví dụ, với sự ủng hộ của Adam Smith về việc cho phép sản xuất và giá cả thị trường tự do và phân bổ nguồn lực. Nhiều nhà lý thuyết đã lưu ý rằng sự gia tăng GDP toàn cầu này theo thời gian trùng với sự xuất hiện của hệ thống tư bản chủ nghĩa hiện đại trên thế giới.[68][69]

Từ năm 1000 đến năm 1820, nền kinh tế thế giới tăng gấp sáu lần, tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng dân số, do đó, cá nhân được hưởng, trung bình, tăng 50% thu nhập. Từ năm 1820 đến năm 1998, kinh tế thế giới tăng gấp 50 lần, tốc độ nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số, do đó, cá nhân được hưởng mức tăng thu nhập trung bình gấp 9 lần.[70] Trong giai đoạn này, ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Úc, nền kinh tế tăng trưởng 19 lần / người, mặc dù các khu vực này đã có mức khởi đầu cao hơn; và ở Nhật Bản, vốn nghèo vào năm 1820, mức tăng của mỗi người là 31 lần. Trong thế giới thứ ba, đã có sự gia tăng, nhưng chỉ có 5 lần cho mỗi người.[70]

Mua bán sức lao động

Xem thêm thông tin: Sức lao động

Trong thị trường lao động, đây là đặc điểm rất nổi bật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế phong kiến và các nền kinh tế cấp thấp lực lượng nhân công (nông dân, nông nô) bị phụ thuộc vào chủ đất (địa chủ, lãnh chúa) và quý tộc về mặt pháp lý, họ bị gắn chặt vào ruộng đất và ý chí của chủ đất và quý tộc. Còn nhân công (người lao động) trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về mặt pháp lý là hoàn toàn bình đẳng với chủ sở hữu doanh nghiệp (người thuê lao động). Giữa người thuê lao động và người lao động ràng buộc kinh tế với nhau bằng hợp đồng lao động: người lao động và chủ doanh nghiệp mua bán sức lao động theo các yếu tố của thị trường. Công nhân có thể thanh lý hợp đồng lao động với người thuê lao động này và sang làm việc cho người thuê lao động khác và nếu muốn cùng với có khả năng hoặc may mắn thì cũng có thể trở thành chủ doanh nghiệp.

Cả xã hội TBCN là một thị trường lao động lớn và thường thì cung ứng lao động nhiều hơn yêu cầu lao động, do vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thường tồn tại nạn thất nghiệp. Do vậy, người lao động thường bị "mua rẻ" sức lao động của mình, một phần giá trị thặng dư mà họ tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt, dẫn đến tình trạng công nhân bị bóc lột trong xã hội tư bản. Mặt khác, các nhà tư bản cũng có xu hướng cắt giảm điều kiện làm việc của người lao động để tiết kiệm chi phí, khiến họ phải lao động vất vả hơn trong những điều kiện cực nhọc, ít an toàn hơn. Ở thời kỳ đầu thế kỷ 20, ngay cả ở các nước như Mỹ hoặc Tây Âu, việc người lao động phải làm việc suốt 12 - 14 giờ mỗi ngày, bị sa thải chỉ vì những lỗi nhỏ, bị tai nạn lao động là điều diễn ra phổ biến. Điều này bị những người cánh tả (xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa) lên án và đề nghị loại bỏ bằng việc áp dụng các chính sách về giờ lao động tối đa, mức lương tối thiểu, bảo hiểm, cấm sa thải tùy tiện, cấm lao động trẻ em... Tuy nhiên nguy cơ của nạn thất nghiệp cũng đóng vai trò kích thích người lao động nâng cao kỹ năng và kỷ luật lao động trong cuộc chạy đua bảo vệ chỗ làm việc.

Quân đội dự bị lao động

Quân đội dự bị lao động là người thất nghiệp và không có việc làm.[71] Nó đồng nghĩa với "quân đội dự trữ công nghiệp" hoặc "dân số tương đối thặng dư", ngoại trừ người thất nghiệp có thể được định nghĩa là những người thực sự tìm kiếm công việc và dân số thặng dư tương đối cũng bao gồm những người không thể làm việc. Việc sử dụng từ "quân đội" đề cập đến các công nhân đang được ký kết và lập lại ở nơi làm việc trong một hệ thống phân cấp, dưới sự chỉ huy cao độ của nền kinh tế.

Trước khi bắt đầu thời kỳ chủ nghĩa tư bản trong lịch sử nhân loại (tức là trước những năm 1500), tỷ lệ thất nghiệp về cấu trúc trên quy mô lớn hiếm khi tồn tại, ngoài việc gây ra bởi thiên tai và chiến tranh.[72] Trong các xã hội cổ đại, tất cả những người có thể làm việc nhất thiết phải làm việc, nếu không họ sẽ chết đói; và do đó một nô lệ hoặc một serf theo định nghĩa không thể trở thành "thất nghiệp". Thường có rất ít khả năng "kiếm một lớp vỏ" mà không làm việc gì cả và thái độ bình thường đối với người ăn xin và người làm biếng là khắc nghiệt.[73] Trẻ em bắt đầu làm việc từ rất sớm. Thật vậy, từ "việc làm" là ngôn ngữ một sản phẩm của thời đại tư bản. Mức độ thất nghiệp thường xuyên giả định một dân số lao động có mức độ phụ thuộc lớn vào tiền lương hoặc tiền lương để kiếm sống, không có phương tiện sinh kế khác cũng như quyền của doanh nghiệp thuê và sa thải nhân viên phù hợp với điều kiện kinh tế hoặc thương mại. Cụm từ "thất nghiệp" bằng tiếng Anh theo nghĩa "tạm thời mất việc" ngày trở lại những năm 1660; tham chiếu đến "người thất nghiệp" như một nhóm lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1782; và tham chiếu đến "thất nghiệp" như một điều kiện chung đầu tiên được chứng thực vào năm 1888.[74]

Cuộc thảo luận được ghi chép đầu tiên về quân đội dự bị lao động là trong một bản thảo được viết bởi Karl Marx:

Ngành công nghiệp lớn liên tục đòi hỏi một đội quân dự bị của công nhân thất nghiệp trong thời gian sản xuất quá mức. Mục đích chính của tư sản liên quan đến công nhân là, tất nhiên, để có lao động hàng hóa càng rẻ càng tốt, điều này chỉ có thể xảy ra khi cung cấp hàng hóa này càng lớn càng tốt liên quan đến nhu cầu của nó, tức là, khi dân số đông người là lớn nhất. Do đó, tình trạng quá đông dân là vì lợi ích của tư sản, và nó cho người lao động những lời khuyên tốt mà nó biết là không thể thực hiện được. Vì vốn chỉ tăng khi sử dụng lao động, việc tăng vốn liên quan đến việc tăng số lượng vô sản, và như chúng ta đã thấy, theo bản chất của quan hệ vốn và lao động, sự gia tăng của vô sản phải tiến hành tương đối nhanh hơn. Lý thuyết... cũng được thể hiện như một định luật tự nhiên, dân số phát triển nhanh hơn phương tiện sinh hoạt, được chào đón nhiều hơn với tư sản khi nó im lặng lương tâm của mình, làm cho lòng tận tâm trở thành nhiệm vụ đạo đức và hậu quả của xã hội vào hậu quả của thiên nhiên, và cuối cùng cho anh cơ hội để xem sự tàn phá của vô sản bằng cách đói như bình tĩnh như sự kiện tự nhiên khác mà không tự đề cao bản thân, và, mặt khác, để xem sự đau khổ của vô sản như lỗi của chính nó và trừng phạt nó. Để chắc chắn, người vô sản có thể kiềm chế bản năng tự nhiên của mình bằng lý trí, và do đó, bằng cách giám sát đạo đức, ngăn chặn luật tự nhiên trong quá trình phát triển nguy hiểm của nó. - Karl Marx, Tiền lương , tháng 12 năm 1847 [75]

Marx giới thiệu khái niệm trong chương 25 của tập đầu tiên của Das Kapital,[76] trong đó nêu rõ:

Tích lũy tư bản... liên tục tạo ra và sản xuất theo tỷ lệ trực tiếp của năng lượng và mức độ của nó, dân số tương đối dư thừa của người lao động, tức là dân số lớn hơn nhu cầu trung bình của việc định giá vốn, và do đó một dân số dư thừa... Đó là sự quan tâm tuyệt đối của mọi nhà tư bản để đưa một lượng lao động nhất định ra khỏi một số lượng nhỏ hơn, hơn là một số lượng lớn lao động, nếu chi phí là như nhau... sản xuất, động cơ này mạnh mẽ hơn. Lực của nó tăng lên cùng với sự tích lũy vốn.

Lập luận của ông là khi chủ nghĩa tư bản phát triển, thành phần hữu cơ của vốn sẽ tăng lên, có nghĩa là khối lượng vốn không đổi tăng nhanh hơn khối lượng vốn biến đổi. Ít công nhân hơn có thể sản xuất tất cả những gì cần thiết cho các yêu cầu của xã hội. Ngoài ra, vốn sẽ trở nên tập trung và tập trung hơn trong tay ít hơn. Đây là xu hướng lịch sử tuyệt đối, một phần dân số làm việc sẽ có xu hướng trở nên thặng dư với các yêu cầu tích lũy vốn theo thời gian. Nghịch lý, sự giàu có của xã hội càng lớn thì quân đội dự trữ công nghiệp càng lớn. Marx gọi nó là "sự đối kháng của sự tích lũy vốn" và ông trích dẫn sự nghèo đói của ông về Triết học (Chương 2, Phần 1) để giải thích hiện tượng này liên quan đến quan hệ sản xuất.[77] Người ta có thể thêm rằng sự giàu có của xã hội càng lớn thì càng có nhiều người có thể hỗ trợ những người không làm việc. Tuy nhiên, khi Marx phát triển thêm lập luận, nó cũng trở nên rõ ràng rằng tùy thuộc vào tình trạng của nền kinh tế quân đội dự bị lao động sẽ mở rộng hoặc hợp đồng, luân phiên bị hấp thụ hoặc trục xuất khỏi lực lượng lao động.

Nhìn chung, các chuyển động chung của tiền lương được điều chỉnh độc quyền bởi sự mở rộng và thu hẹp của quân đội dự trữ công nghiệp, và một lần nữa tương ứng với những thay đổi định kỳ của chu kỳ công nghiệp. Do đó, chúng không được xác định bởi các biến thể của số lượng tuyệt đối của dân số làm việc, nhưng bằng các tỷ lệ khác nhau trong đó tầng lớp lao động được chia thành quân đội chủ động và dự trữ, bằng cách tăng hoặc giảm trong lượng thặng dư tương đối dân số, trong phạm vi mà hiện nay nó được hấp thụ, bây giờ được đặt miễn phí.

Trong những năm gần đây, đã có nghiên cứu ngày càng tăng về khái niệm "Vô sản Bấp bênh (precariat)" để mô tả sự phụ thuộc ngày càng tăng vào những người lao động tạm thời, bán thời gian với tình trạng bấp bênh, những người chia sẻ các khía cạnh của vô sản và quân đội dự bị lao động.[78] Những người lao động bấp bênh làm việc bán thời gian hoặc toàn thời gian trong các công việc tạm thời, nhưng họ không thể kiếm đủ tiền để sống và phụ thuộc một phần vào bạn bè hoặc gia đình, hoặc lợi ích của nhà nước, để tồn tại. Thông thường, họ không trở thành thực sự "thất nghiệp", nhưng họ không có một công việc ổn định để đi đến một trong hai.[79] Sự gia tăng của các precariat đã được quy cho sự xuất hiện của chủ nghĩa tự do toàn cầu.[80]

Mặc dù những người không làm việc không thể hoặc không quan tâm đến việc thực hiện công việc được trả lương hợp pháp không được coi là một trong số những người thất nghiệp, khái niệm "thất nghiệp kết nghĩa" được sử dụng trong kinh tế hiện nay.[81] Các nhà kinh tế học thường phân biệt giữa thất nghiệp "ma sát" hoặc "chu kỳ" ngắn hạn và "thất nghiệp cơ cấu" dài hạn. Đôi khi có sự không phù hợp ngắn hạn giữa nhu cầu và cung lao động, vào những thời điểm khác, tổng nhu cầu lao động ít hơn nhiều so với nguồn cung trong một thời gian dài. Nếu không có khả năng để có được một công việc ở tất cả trong tương lai gần, tồn tại, nhiều người trẻ quyết định di cư hoặc di cư đến một nơi mà họ có thể tìm được việc làm.

Thành phần của dân số thặng dư tương đối

Marx thảo luận về đội quân lao động và quân đội dự bị tại thủ đô, Chương 25, Mục IV. Quân đội lao động bao gồm những người làm việc ở tầng lớp trung bình hoặc cao hơn công việc trung bình. Không phải mọi người trong lớp làm việc đều nhận được một trong những công việc này. Sau đó có bốn loại khác, nơi các thành viên của tầng lớp lao động có thể tìm thấy chính mình: "hồ bơi trì trệ", dự trữ nổi, dự trữ tiềm ẩn và nghèo túng. Cuối cùng, mọi người có thể rời quân đội và quân đội dự bị bằng cách chuyển sang tội phạm và Marx đề cập đến những người như " vô sản lưu manh".[82]

  • Phần trì trệ bao gồm những người bị thiệt thòi với "việc làm cực kỳ bất thường". Các công việc hồ bơi ứ đọng được đặc trưng bởi mức lương trung bình dưới mức, điều kiện làm việc nguy hiểm, chúng có thể tạm thời. Những người bị bắt trong hồ ứ đọng có việc làm, vì vậy định nghĩa hiện đại về việc làm sẽ bao gồm cả quân đội lao động cộng với hồ trì trệ. Tuy nhiên, họ liên tục tìm kiếm điều gì đó tốt hơn.

Người thất nghiệp hiện đại sẽ đề cập chủ yếu đến khu bảo tồn nổi, những người từng có việc làm tốt, nhưng giờ đã mất việc. Họ chắc chắn hy vọng rằng tỷ lệ thất nghiệp của họ là tạm thời ("thất nghiệp kết nghĩa"), nhưng họ nhận thức rõ rằng họ có thể rơi vào hồ bơi trì trệ hoặc lớp học pauper.

  • Phần tiềm ẩn bao gồm phân khúc dân số chưa được tích hợp đầy đủ vào sản xuất tư bản. Trong ngày của Marx, ông đề cập đến những người sống trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp đang tìm kiếm việc làm tiền tệ trong ngành. Trong thời hiện đại, những người đến từ khu ổ chuột ở các nước đang phát triển, nơi họ sống chủ yếu bằng các phương tiện phi tiền tệ để phát triển các thành phố nơi họ làm việc để trả tiền có thể hình thành tiềm ẩn. Các bà nội trợ chuyển từ việc làm không lương sang trả lương cho một doanh nghiệp cũng có thể tạo thành một phần của dự trữ tiềm ẩn. Họ không thất nghiệp vì họ không nhất thiết phải tìm kiếm một công việc, nhưng nếu vốn cần thêm công nhân, nó có thể kéo họ ra khỏi dự trữ tiềm ẩn. Theo nghĩa này, tiềm ẩn tạo thành một hồ chứa công nhân tiềm năng cho các ngành công nghiệp.
  • Pauperdom là nơi người ta có thể kết thúc. Người vô gia cư là thuật ngữ hiện đại cho người nghèo. Marx gọi họ là những người không thể thích nghi với sự thay đổi không bao giờ kết thúc của thủ đô. Đối với Marx, "Tình trạng bần cùng", bao gồm cả những người vẫn có thể làm việc, trẻ em mồ côi và trẻ em nghèo; và "bị mất tinh thần và rách rưới" hoặc "không thể làm việc".

Phương thức sản xuất

Xem thêm thông tin: Phương thức sản xuất

Chế độ tư bản sản xuất đề cập đến các hệ thống tổ chức sản xuất và phân phối trong các xã hội tư bản. Việc kiếm tiền tư nhân dưới nhiều hình thức khác nhau (cho thuê, ngân hàng, buôn bán, sản xuất vì lợi nhuận…) trước sự phát triển của chế độ tư bản sản xuất như vậy. Phương thức sản xuất tư bản phù hợp dựa trên tiền lương và quyền sở hữu tư nhân của các phương tiện sản xuất và công nghệ công nghiệp bắt đầu phát triển nhanh chóng ở Tây Âu từ cuộc cách mạng công nghiệp, sau đó mở rộng ra hầu hết thế giới.[cần dẫn nguồn]

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác định bằng quyền sở hữu tư nhân của phương thức sản xuất, khai thác giá trị thặng dư của lớp sở hữu với mục đích tích lũy vốn, lao động dựa trên tiền lương và ít nhất là hàng hóa có liên quan đến thị trường.[83]

Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hoạt động kiếm tiền đã tồn tại dưới hình thức thương nhân và người cho vay tiền đóng vai trò trung gian giữa người tiêu dùng và người sản xuất tham gia vào sản xuất hàng hóa đơn giản (do đó tham chiếu đến "chủ nghĩa tư bản thương gia"). Điều cụ thể về "chế độ tư bản sản xuất" là hầu hết các đầu vào và đầu ra của sản xuất được cung cấp thông qua thị trường (tức là chúng là hàng hóa) và về cơ bản tất cả sản xuất đều ở chế độ này.[10] Ví dụ, trong phong kiến hưng thịnh hầu hết hoặc tất cả các yếu tố sản xuất bao gồm lao động thuộc sở hữu của lớp cai trị phong kiến hoàn toàn và các sản phẩm cũng có thể được tiêu thụ mà không có thị trường dưới bất kỳ hình thức nào, đó là sản xuất để sử dụng trong đơn vị xã hội phong kiến và hạn chế thương mại.[52] Điều này có hệ quả quan trọng là toàn bộ tổ chức của quá trình sản xuất được định hình lại và tổ chức lại để phù hợp với tính hợp lý kinh tế như ràng buộc bởi chủ nghĩa tư bản, được thể hiện trong mối quan hệ giá giữa đầu vào và đầu ra (tiền lương, chi phí nhân tố phi lao động, bán hàng và lợi nhuận) chứ không phải là bối cảnh hợp lý lớn hơn mà xã hội phải đối mặt chung - tức là toàn bộ quá trình được tổ chức và tái định hình để phù hợp với "logic thương mại". Về cơ bản, tích lũy vốn đến để xác định tính hợp lý kinh tế trong sản xuất tư bản.[53]

Xã hội, khu vực hoặc quốc gia là tư bản chủ nghĩa nếu nguồn thu nhập và sản phẩm chủ yếu được phân phối là hoạt động tư bản, nhưng thậm chí điều này không có nghĩa là chế độ tư bản sản xuất chiếm ưu thế trong xã hội đó.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chủ_nghĩa_tư_bản http://www.dsp.org.au/node/31 http://www.hetsa.org.au/pdf/34-A-08.pdf http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F015982.php http://www.bartleby.com/65/la/laissezf.html http://www.blackmask.com/books18c/prspircap.htm http://www.britannica.com/EBchecked/topic/178493/e... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/93927/ca... http://www.dictionaryofeconomics.com/article?id=pd... http://www.dictionaryofeconomics.com/article?id=pd... http://www.dictionaryofeconomics.com/article?id=pd...